Vừa có một câu hỏi: “Ðã có thẻ xanh, tôi đi Việt Nam, khi về Hoa Kỳ tôi có cần re-entry permit hay không? Tôi nghe nói thường trú nhân (có thẻ xanh) về Việt Nam dưới sáu tháng không cần re-entry permit”
Khi trả lời câu hỏi trên, tôi phải hiểu rõ tình cảnh của bạn mới có thể trả lời. Trong một quá trình rất dài đã qua, tôi chứng kiến rất nhiều những tai hại của những trường hợp làm thủ tục không đúng vì không hiểu rõ Luật Di Trú, ý kiến tư vấn của tôi không thể nào trả lời chỉ một câu: đúng hay sai, hoặc được hay không, nhưng phải trình bày sự lợi và hại nếu trong trường hợp 1, và sự lợi và hại nếu trong trường hợp 2. Thêm vào đó là những sự lợi và hại hiện tại và những sự lợi và hại trong tương lai. Ðiển hình là tôi có thể trả lời những câu hỏi trên là: “Ðúng, thường trú nhân về Việt Nam dưới sáu tháng không cần reentry permit.” Nhưng câu trả lời đó không hoàn toàn chính xác vì có nhiều trường hợp thường trú nhân rời Hoa Kỳ dưới 6 tháng, khi trở về Hoa Kỳ vẫn bị đưa ra Tòa Di Trú để trục xuất.
Thường trú nhân (Lawful Permanent Resident gọi tắt là LPR), khi nhập cảnh Hoa Kỳ phải trình giấy tờ cần thiết mới được nhập cảnh. Những giấy tờ cần thiết thường trú nhân có thể dùng để nhập cảnh Hoa Kỳ: một là chiếu khán thường trú đặc biệt; hai là thẻ xanh; ba là re-entry permit. Chiếu khán thường trú đặc biệt cấp tại lãnh sự Hoa Kỳ bằng cách trình thẻ xanh, chứng minh sự liên hệ gia đình hoặc tài chánh ở Hoa Kỳ, và chứng minh rằng thời gian dài ở ngoài Hoa Kỳ là ngoài sự kiểm soát của mình. Chiếu khán thường trú đặc biệt này được dùng bởi những thường trú nhân ở ngoài Hoa Kỳ một thời gian lâu muốn trở về Hoa Kỳ nhưng lo rằng Sở Di Trú không cho nhập cảnh vì đương sự đã “bỏ rơi” sự thường trú của họ.
Theo luật di trú, thường trú nhân nhập cảnh Hoa Kỳ được chia ra làm 2 loại:
1. Thường trú nhân xin nhập cảnh: Vì đương đơn đang xin nhập cảnh, Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh.
2. Thường trú nhân trở về (returning LPR): Được coi là không cần xin phép nhập cảnh cho nên những điều luật cấm nhập cảnh không thể được áp dụng. Thường trú nhân trở về chỉ cần có giấy thẻ xanh hoặc re-entry permit. Thường trú nhân trở về sẽ bị xem là Thường trú nhân xin nhập cảnh nếu đã vi phạm một trong những trường hợp sau đây:
. Bỏ rơi sự thường trú của đương sự. Hoặc
. Ðã vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày. Hoặc
. Phạm pháp trong thời gian vắng mặt ở Hoa Kỳ, tức là phạm pháp ở ngoài Hoa Kỳ. Hoặc
. Rời khỏi Hoa Kỳ trong khi đang trong quá trình xét xử để trục xuất. Hoặc
. Ðã bị án những tội nêu trong phần 212(a)(2) của Bộ Luật Di Trú như: “Crimes of Moral Turpitude” như là ăn cắp (theft), gian lận (fraud), bạo động trong gia đình (domestic violence) v.v…; bị án 2 tội trở lên và tổng cộng thời gian án tù 5 năm trở lên; bị án việc buôn lậu ma túy; bị án mãi dâm; bị án việc chuyên chở người bất hợp pháp vào Hoa Kỳ… Hoặc
. Có dự tính nhập cảnh Hoa Kỳ ngoài những cửa khẩu chính thức công nhận bởi nhân viên Sở Di Trú hoặc đã bị từ chối nhập cảnh Hoa Kỳ.
Như bạn thấy trong trường hợp thứ hai, thường trú nhân vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày (tức 6 tháng) sẽ bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh. Cũng có thể vì trường hợp thứ hai này mà chúng ta nghe nhiều người nói “thường trú nhân về Việt Nam dưới 6 tháng không cần re-entry permit.” Nhưng câu nói đó không hoàn toàn đúng sự thật vì thường trú nhân vắng mặt Hoa Kỳ dưới 6 tháng vẫn có thể bị Sở Di Trú không cho phép nhập cảnh. Ngoài sự chứng minh đương đơn là thường trú nhân, đương đơn phải là người không có ý định bỏ rơi sự thường trú của mình. Vấn đề chính là người thường trú nhân phải chứng minh rằng họ không bỏ rơi sự thường trú của họ và những yếu tố để chứng minh người thường trú nhân có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không là: liên hệ gia đình ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, tài sản ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, việc làm ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có phải chính thức được gọi là nhà hay không, lý do rời khỏi Hoa Kỳ, và thời gian ở ngoài Hoa Kỳ, v.v… Thẻ xanh hoặc re-entry permit, chỉ chứng minh rằng đương đơn là thường trú nhân. Nếu Sở Di Trú có chứng cớ là đương đơn bỏ rơi sự thường trú của họ, dù đương đơn có thẻ xanh đi dưới 6 tháng hoặc có reentry permit vẫn bị từ chối nhập cảnh.
Tôi đơn cử một vài trường hợp đã xảy ra.
.Trường hợp thứ nhất: Thường trú nhân rời Hoa Kỳ 3 tháng, trở về lại Hoa Kỳ 1 tháng, rồi lại rời Hoa Kỳ 3 tháng nữa v.v… Như vậy người thường trú nhân này ở ngoài Hoa Kỳ nhiều hơn là ở tại Hoa Kỳ, không có tài sản ở Hoa Kỳ, không có việc làm ở Hoa Kỳ, không khai thuế ở Hoa Kỳ. Khi người thường trú nhân này trở về Hoa Kỳ, Sở Di Trú có thể từ chối không cho người thường trú nhân này nhập cảnh và đưa ra tòa để trục xuất, vì người thường trú nhân này đã bỏ rơi sự thường trú của họ.
. Trường hợp thứ hai: Thường trú nhân có việc làm ở Hoa Kỳ, làm chủ một căn nhà ở Hoa Kỳ, khai thuế hàng năm ở Hoa Kỳ và có vợ và con ở Hoa Kỳ. Người thường trú nhân này đi Việt Nam 9 tháng mới trở về Hoa Kỳ. Dù là người thường trú nhân này đi quá 6 tháng và không có re-entry permit, họ vẫn được nhập cảnh Hoa Kỳ vì họ là thường trú nhân không có ý định bỏ rơi sự thường trú của họ.
Hai điển hình trên là cả hai người thường trú nhân đều rời Hoa Kỳ dưới 1 năm nhưng trường hợp thứ nhất đương sự bị đưa ra tòa trục xuất, trường hợp thứ hai đương sự không bị đưa ra tòa trục xuất như tôi đã trình bày ở trên.
Theo luật di trú hiện nay, thường trú nhân rời Hoa Kỳ trên 1 năm, Sở Di Trú cho là người thường trú nhân đó đã bỏ rơi sự thường trú của họ. Nhưng có sự khác biệt giữa thẻ xanh và re-entry permit là khi thường trú nhân có re-entry permit (mà re-entry permit thường có giá trị 2 năm), Sở Di Trú không thể dựa vào thời gian vắng mặt tại Hoa Kỳ khi re-entry permit còn giá trị để xét người thường trú nhân đó có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không. Sở Di Trú phải có lý do chính đáng, có bằng chứng cụ thể theo những yếu tố tôi đã trình bày trên để chứng minh rằng người thường trú nhân đó đã bỏ rơi sự thường trú của họ, thì khi đó Sở Di Trú mới có quyền đưa ra tòa trục xuất.
Ðể tóm tắt lại, thường trú nhân rời Hoa Kỳ thường xuyên nên có re-entry permit và không nên đi quá 6 tháng. Thêm vào đó, nên để ý những yếu tố Sở Di Trú dùng để chứng minh thường trú nhân bỏ rơi sự thường trú của họ.
Bạn nên lưu ý, những điều tôi đã trình bày trên chỉ nói về vấn đề thời gian rời Hoa Kỳ. Nhưng thời gian chỉ là một trường hợp trong sáu trường hợp nêu trên. Nếu thường trú nhân bị án như nêu trong trường hợp thứ năm, dù rời Hoa Kỳ một ngày vẫn bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh với người thường trú nhân đó. Hiện nay Sở Di Trú chấp hành luật di trú hết sức khắc khe. Những thường trú nhân có tiền án không nên rời khỏi Hoa Kỳ trong thời gian khó khăn này. Nếu vì tình cảnh bắt buộc phải rời khỏi Hoa Kỳ, nên liên lạc với một luật sư am tường về luật di trú để tìm hiểu sự lợi hại khi nhập cảnh trở lại Hoa Kỳ.